THÔNG TIN Y HỌC CHO BỆNH NHÂN

BÍT THÔNG LIÊN NHĨ BẰNG DỤNG CỤ QUA DA
[ Cập nhật vào ngày (09/06/2014) ]

Khi tồn tại một lỗ thông trên vách liên thất hoặc vách liên nhĩ gọi là thông liên thất (TLT) hoặc thông liên nhĩ (TLN). Đây là dị tật tương đối hay gặp ở trẻ sơ sinh. Khoảng 3% trẻ sơ sinh đủ tháng có lỗ TLT trong khi tỷ lệ trẻ bị TLN chiếm 10% tất cả các dị tật bẩm sinh.


Phần lớn các lỗ TLT đều tự bít khi trẻ lên 1 tuổi. Những bệnh nhân có lỗ TLT nhỏ  có tuổi thọ  như người bình thường, nhưng có nguy cơ bị  viêm nội tâm mạc nhiễm khuẩn, vì vậy cần được dùng kháng sinh dự  phòng trước mọi can thiệp thủthuật có chảy máu như: nhổ  răng. Trong trường hợp lỗ  TLT lớn hoặc có nhiều lỗ nhỏ có thể gây suy tim và cần thiết phải phẫu thuật vá lỗ thông TLN được phân loại dựa vào vị trí lỗ thông. Sự biểu hiện của các triệu chứng cũng phụ  thuộc vào vị  trí lỗ  thông. Mặc dù phần lớn các trường hợp, lỗ  thông có từ  khi sinh ra nhưng bệnh nhân không hề  có triệu chứng trong giai đoạn còn nhỏ tuổi và có thể  không được phát hiện cho  đến khi bệnh nhân 40  -  50 tuổi. Vì lí do này, TLN là dị tật tim bẩm sinh có tỷ lệ gặp cao nhất ở người trưởng thành.

THÔNG LIÊN NHĨ LỖ THỨ HAI

TLN lỗ  thứ  hai là các lỗ  thông trên vách liên nhĩ không xâm phạm vào van nhĩ thất. Khác với tim người  bình thường,    bệnh nhân TLN có một luồng thông từ  tim trái sang tim phải đặc biệt trong thì tâm trương. Luồng thông gây tăng gánh thể  tích thất phải, dần dần gây giãn thất phải và suy thất phải. Nhĩ phải giãn lâu ngày có thể  gây ra các rối loạn nhịp tim chủ yếu là rung nhĩ và cuồng nhĩ. Rối loạn nhịp tim hay xảy ra trên những bệnh nhân TLN trên 30 tuổi, tỷ lệ mắc tăng dần theo tuổi. Tăng lưu lượng máu phổi gây ra một áp lực tác dụng trực tiếp trên thành mạch máu phổi, dẫn đến những biến đổi về  hình thái và chức năng, cuối cùng dẫn đến bệnh lý mạch máu phổi. Ngoài ra ở  giai đoạn muộn của bệnh có tình trạng hở  van hai lá và nguy cơ nhồi máu phổi.

Vì thế  những bệnh nhân có lỗ  TLN lớn cần được đóng lỗ  thông bằng phẫu thuật hoặc dụng cụ qua da nhằm dự phòng các biến chứng. Bệnh nhân có lỗ TLN nhỏ  có nguy cơ tắc mạch. Đóng lỗ TLN còn giúp cải thiện khả năng gắng sức của bệnh nhân.

 Sau đóng lỗ  thông, kích thước thất phải thường trở  về  bình thường hoặc gần như bình thường nhưng nhĩ phải vẫn giãn. Vì vậy đóng lỗ  TLN không làm giảm nguy cơ xuất hiện rung nhĩ về lâu dài.

ĐÓNG LỖ TLN BẰNG DỤNG CỤ

Đóng lỗ TLN bằng dụng cụ được King và Miller thực hiện lần đầu năm 1979, tuy nhiên những loại dụng cụ  đóng TLN có độ  tin cậy mới chỉ  ra đời trong những năm gần đây. Từ  cuối những năm 1980, đầu những năm 90, dụng cụ  dạng nút và ASDOS được dùng rộng rãi    châu Âu. Vào đầu những năm 90 là sự  ra đời của dụng cụ Angel. Ngày nay, cả ASDOS và Angel đã không còn được sử dụng do nguy cơ cao gây thủng tim.

Ngày nay các loại dụng cụ  hay được sử  dụng nhất là dù Amplatzer, dù Starflex và Helex. Hầu hết các loại dụng cụ  đang sử  dụng hiện nay đều gồm hai cánh nối với nhau bởi một eo ở trung tâm, được cấu tạo bởi sợi tổng hợp dệt trên khung kim loại. Khi bít TLN bằng dụng cụ, hai cánh của dù sẽ  nằm ở hai mặt của vách liên nhĩ ép vào vách liên nhĩ làm bịt kín lỗ thông. Để can thiệp bít thành công, phần  rìa quanh lỗ  thông phải đủ  lớn để  dụng cụ  không chạm và gây ảnh hưởng đến chức năng van nhĩ thất đồng thời gờ  phải đủ  lớn để  dù bám chắc không bị bung.

Sự  ra đời của dụng cụ  bít TLN đã làm giảm tỷ  lệ  bệnh nhân phải phẫu thuật vá lỗ  thông, do đó làm giảm đau đớn, giảm thời gian nằm viện, hồi phục nhanh so với phẫu thuật. Phương pháp đóng lỗ  thông bằng dụng cụ  ngày càng được ưa chuộng do tỷ lệ thảnh công cao, tỷ lệ biến chứng thấp và có thể áp dụng được cho cả  trẻ  sơ sinh và trẻ  nhỏ. Tuy nhiên cũng có những hạn chế  nhất định của can thiệp bít TLN bao gồm:

- Chỉ 60% các trường hợp TLN thích hợp cho bít bằng dụng cụ

- Nguy cơ tai biến mạch não

- Chảy máu và tắc mạch đùi

-Tắc mạch do bung dụng cụ  có thể  phải mổ  cấp cứu nếu không lấy ra được

bằng dụng cụ

- Hở van hai lá

- Rối loạn nhịp trong vài tuần sau can thiệp do động chạm vào tâm nhĩ trong

quá trình làm can thiệp

- Thủng tâm nhĩ hoặc động mạch chủ

- Shunt tồn lưu



Khoa Tim Mạch can thiệp




Tìm kiếm

TIN TỨC & SỰ KIỆN


Đơn vị trực thuộc

Text/HTML

SƠ ĐỒ ĐƯỜNG ĐI

Thư viện ảnh

thư viện VIDEO

tiện ích